Phân tích bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận ta sẽ thấy được vẻ đẹp thiên nhiên tươi sáng và nét đẹp lao động thời kì đổi mới của nước nhà.
Bạn đang đọc: Phân tích bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận cực hay
Bài mẫu phân tích bài Đoàn thuyền đánh cá
Thời kì hòa bình, đổi mới đất nước là giai đoạn thi ca Việt Nam tươi sáng, giàu sự tin yêu và niềm hi vọng nhất. Trong đó, “Đoàn thuyền đánh cá” là tác phẩm nổi bật của Huy Cận viết trong giai đoạn này. Phân tích bài Đoàn thuyền đánh cá, ta sẽ thấy được thiên nhiên tươi đẹp, con người lao động hăng say, miệt mài và tâm hồn tràn đầy tin yêu của tác giả.
Khái quát tác giả, tác phẩm
Huy Cận sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh, bộc lộ. khiếu văn chương từ rất sớm. Từ năm 15 tuổi, ông đã có thơ đăng báo. Sau đó ông nổi tiếng với tập thơ “Lửa thiêng”. Trước Cách mạng, Huy Cận được biết đến là một trong những nhà thơ hàng đầu trong phong trào Thơ mới. Thời gian này, thơ của ông có nỗi ám ảnh thường trực là nỗi buồn, nỗi sầu bi kéo dài trong mỗi tác phẩm. Sau Cách mạng, phong cách thơ văn của Huy Cận thay đổi rõ rệt. Thơ ông giờ đây tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, căng tràn sức sống mãnh liệt và niềm tin vào chế độ.
“Đoàn thuyền đánh cá” được viết vào năm 1958, khi đất nước vừa được giải phóng. Miền Bắc lúc đó đang trên con đường xây dựng Xã hội Chủ nghĩa, con người tràn ngập niềm tin yêu, lạc quan vào tương lai. Sau chuyến thâm nhập thực tế ở Quảng Ninh, Huy Cận đã viết nên bài thơ này. Có thể nói đây là tác phẩm đánh dấu sự hồi sinh, xanh tươi trở lại của hồn thơ Huy Cận.
Bài thơ như đã trở thành khúc tráng ca của người lao động khi nhịp điệu cộng với sự xuất hiện nhiều từ “hát”. Bài thơ giống như một khúc ca hào hùng về lao động, niềm ngợi ca của tác giả với thiên nhiên, con người chế độ mới.
Phân tích chi tiết
- Luận điểm 1: Khúc tráng ca về con người lao động
Chỉ quan nhan đề, tác giả đã có thể thể hiện cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Đó là khúc ca ca ngợi những người lao động trong thời kì đầu xây dựng Xã hội Chủ nghĩa. Khúc tráng ca ấy được thể hiện theo chiều dài hành trình của chuyến ra khơi. Khi đó, con người hiện lên chân thực và vô cùng sinh động.
Trước hết, tác giả đã khắc hoạ cảnh tượng con người lạc quan, vui vẻ, tràn đầy niềm hăng say khi ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Qua ngòi bút của tác giả, ta có thể hình dung được không gian, thời gian ra khơi của người dân. Đoàn thuyền đã ra khơi trong cảnh hoàng hôn tráng lệ, huy hoàng và rất giàu sức sống. Khi đó, cảnh biển về đêm đẹp mộ vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ. Không gian tưởng như đang bước ta từ thần thoại, đồng thời khơi gợi được sự gần gũi, thân quen như một ngôi nhà đối với người dân chài lưới.
Giữa lúc vũ trụ chuyển vào trạng thái nghỉ ngơi thì đó cũng là lũ con người bắt đầu ra khơi, hăng say lao động. Huy Cận đã khắc hoạ được khí thế hừng hực của đoàn thuyền ra khơi. Khi kết hợp với động từ “lại”, lời thơ lại thêm nhấn mạnh sự hứng khởi của công việc hàng ngày tưởng chừng như vốn đã quen thuộc. Chỉ với khổ thơ đầu, Huy Cận đã làm nổi bật sự mạnh mẽ cùng khí thế phơi phới của người lao động trên biển. Bây giờ, họ đã làm chủ cuộc đời và đang trên con đường chinh phục biển khơi.
Tiếp đó, hình tượng con người còn được khắc hoạ thêm ở cảnh ra khơi huy hoàng, đầy khí thế và hứa hẹn. Lời thơ tràn đầy niềm cảm hứng say sưa, tựa như một bài ca lao động vui tươi, khỏe khoắn. Và bài ca ấy cũng ngợi ca cảnh đánh cá trên biển của người dân lao động. Dưới ngòi bút của Huy Cận, hình ảnh con thuyền lướt đi trên mặt biển bao la đã trở nên vô cùng kì vĩ, lớn lao. Nó thậm chí đã có thể sánh ngang tầm vũ trụ huyền hoặc:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Ở đây, con thuyền hiện lên thật độc đáo khi có sự hòa quyện với thiên nhiên, biển trời. Nó lướt băng băng như đang “dò bụng biển”. Đây là hình ảnh đẹp, kỳ ảo, diễn tả hoạt động đánh cá như đang đánh một trận đánh trong một thế trận hào hùng. Với hình ảnh giàu tính tượng trưng, tã giả đã gợi ra sự khéo léo, tâm hồn phóng khoáng của nhân dân lao động khi chinh phục biển cả. Đó là tâm thế mà chỉ có những con người làm chủ đất nước mới có được.
- Luận điểm 2: Sự giàu có và trù phú của biển cả
Không chỉ miêu tả con người với tâm thế hiên ngang, tác giả còn tập trung miêu tả thiên nhiên đặc sắc:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Những hình ảnh “cá bạc”, “đoàn thoi” đã nhấn mạnh sự giàu có, quý giá của thiên nhiên đất nước. Với cách sử dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa tinh tế, thiên nhiên hiện lên vừa tươi đẹp, vừa kì vĩ vô cùng. Từ xưng hô “ta” góp phần diễn tả tâm thế tự hào của con người. Bây giờ đây khi đứng trước biển cả bao la, con người không còn là cái “tôi” nhỏ bé nữa mà trở nên tự tin, lớn lao hơn rất nhiều.
Bên cạnh đó, tác giả cũng có những cảm nhận về vẻ đẹp và sự đa dạng của các loài cá quý. Tác giả đã liệt kê tên các loại cá ở biển như cá nhụ, cá chim, cá đé… Đây đều là những loại cá mang giá trị kinh tế cao, giúp phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
Qua cái nhìn của nhà thơ, biển không chỉ giàu có về tài nguyên mà còn đẹp đẽ, thơ mộng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Những màu sắc lấp lánh của muôn loài cá (lấp lánh, đen hồng, vàng chóe) đã cùng nhau tạo nên tổng thể rất hút mắt. Nó như một bức tranh sơn mài tuyệt đẹp của tạo hoá đã tạo ra qua hàng triệu năm.
Đêm ở biển cũng được miêu tả sống động, mang hơi thở của cuộc sống thường ngày. Con người thân thuộc, làm chủ được thiên nhiên, biển trời. Như vậy tầm vóc của người và đoàn thuyền đã được nâng lên, hòa nhập vào với kích thước của thiên nhiên, vũ trụ. Giờ đây con người không còn mang cảm giác cô đơn, nhỏ bé khi đối diện với trời rộng, sông dài như trước nữa mà trở nên tự tin, phóng khoáng hơn rất nhiều.
- Luận điểm 3: Khúc hát vui tươi trong lao động
Đeer tiếp sức cho chặng đường lao động, khúc hát vui tươi trong lao động đã được cất lên qua lời thơ tài tình của Huy Cận:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Câu thơ “Ta hát bài ca gọi cá vào” đã gợi ra niềm vui, sự phấn chấn của con người trong lao động. Còn hành động “gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” thì gợi ra cảm nhận đầy chất thơ, bay bổng và lãng mạn của tâm hồn thi sĩ. Những hình ảnh lãng mạn, đậm chất thơ ấy đã làm cho công việc vốn nặng nhọc, vất vả bông trở nên rộn rã và thi vị hơn rất nhiều.
Sau một ngày dài, khúc ca khải hoàn ấy vẫn vang lên rõ ràng, khô hề nhụt chí:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Với khổ thơ cuối, đoàn thuyền trở về trong sự tráng lệ của bình minh lộng lẫy, rực rỡ. Đoàn thuyền lúc này dường như đang “chạy đua cùng mặt trời”, chạy đua cùng vũ trụ. Câu hát ấy đã đi theo suốt hành trình của người dân chài, từ khi ra khơi cho tới khi trở về. Nó đã nhằm nhấn mạnh niềm vui lao động của con người khi có thể cống hiến và làm giàu quê hương.
Ở đây, tác giả đã khéo léo sử dụng kết cấu đầu cuối tương ứng với hình ảnh mặt trời. Hình ảnh ấy lặp lại, báo hiệu một sự hồi sinh, thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc tột cùng khi chào đón những người hùng của biển cả trở về với quê hương. Hình ảnh cuối cùng xuất hiện trong bài thơ là “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Đó chính là niềm vui sướng của người dân chài khi được mùa cá. Đồng thời cũng thể hiện một niềm tin tưởng, hi hy vọng và chiến thắng vinh quang của con người trên chặng đường lao động phía trước.
Kết bài phân tích bài Đoàn thuyền đánh cá
Thông qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, ta đã có thể thấy được thiên nhiên cảnh vật của đất nước hiện lên kì vĩ, tươi đẹp. Đồng thời niềm say mê lao động, tin yêu vào chế độ mới cũng được thể hiện rõ ràng. Bài thơ chính là hành trang quý báu mà mỗi người mang theo trong đời, gieo vào trái tim niềm lạc quan và say mê lao động ở tương lai.