Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 để thấy tõ những vất vả, hiểm nguy người nông dân phải trải qua để làm ra hạt gạo, qua đó ta biết trân trọng hơn thành quả đó.
Bạn đang đọc: Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5
Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Trước khi đi vào Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5, ta cần nắm bắt một số thông tin khái quát về nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng như hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
Trần Đăng Khoa thường được gọi là nhà thơ của thiếu nhi, bởi ông sáng tác thơ từ khi còn rất nhỏ tuổi nên được biết đến là nhà thơ thần đồng. Bên cạnh thơ dành cho trẻ thơ, ông còn sáng tác nhiều tác phẩm về đất nước, con người với giọng thơ hồn nhiên, trong trẻo.
Trần Đăng Khoa từng phục vũ quân ngũ, sau khi đất nước thống nhất ông từng sang Nga du học và sau đó làm việc cho Tạp chí Văn nghệ quân đội. Trong quá trình sáng tác, ông có nhiều tác phẩm gây dấu ấn trong lòng độc giả như tập thơ “Góc sân và khoảng trời”, “Trường ca Giông bão”, “Quần đảo chìm”… Năm 201, Trần Đăng Khoa nhận được Phần thưởng Nhà nước về văn học thẩm mỹ.
Trong số những tác phẩm đặc sắc, “Hạt gạo làng ta” là bài thơ được nhiều độc giả yêu mến. Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 ta sẽ thấy như được gợi nhớ về con người, quê hương, đất nước với những thân thương, bình dị nhất.
Bài thơ được trích từ tập thơ “Góc sân và khoảng trời”, được Trần Đăng Khoa viết vào thời điểm chiến tranh khốc liệt, kháng chiến chống Mỹ, năm 1969. Lúc sáng tác bài thơ, nhà thơ mới chỉ 11 tuổi, nhưng hồn thơ và dụng ý thơ lại rất trưởng thành.
Thân bài phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5
Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 chi tiết theo luận điểm
Luận điểm 1: Nguồn gốc dân dã của hạt gạo làng ta và những gian khổ để làm ra hạt gạo
Ở ngay những câu thơ đầu bài thơ, Trần Đăng Khoa đã nêu rõ giá trị đã kết tinh nên hạt gạo trắng thơm:
“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay.”
Việt Nam là một nước nông nghiệp, ruộng đồng, thôn xóm rồi những lúa, những gạo là những hình ảnh quen thuộc. Hạt gạo trắng sữa, thơm thoang thoảng chính là hạt ngọc quý giá, được kết tinh từ vị phù sa của sông Kinh Thầy, từ hương sen thanh mát. Và hạt gạo cũng xuất hiện cả trong lời ru của mẹ, với đủ “ngọt bùi đắng cay”.
Hạt gạo nhỏ bé, trắng tinh khôi ấy chính là nguồn lương thực quý giá mang đến nguồn sống lẫn những giá trị tinh thần lớn lao cho người dân quê, và giúp tiền tuyến yên tâm chống giặc. Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 ta thấy trong miêu tả của Trần Đăng Khoa, hạt gạo thân thương luôn gắn bó thân thuộc với nhân dân cũng là điều đẹp đẽ và tinh túy nhất.
Chính những hạt lúa nhỏ bé, trắng tinh khôi ấy chính là thứ mang lại nguồn lương thực và cả giá trị tinh thần vô cùng lớn lao dành cho mọi người. Dường như, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã miêu tả vẻ đẹp của những hạt gạo bằng những hình ảnh thân thuộc, gắn bó với nhân dân cũng là điều đẹp đẽ nhất và tinh túy nhất.
Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 ta nhận thấy, để có được những hạt gạo trắng thơm, tinh túy, con người phải trải qua một quá trình lao động với biết bao khó khăn gian khổ. Nhà thơ kể:
“Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”
Những dòng thơ trên cho thấy, công việc canh tác, cày cấy phải chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Mà trở ngại lớn nhất chính là sự khắc nhiệt, sự không thuận hòa của thiên nhiên, của khí hậu.
Ca dao xưa từng có những câu thể hiện những khó khăn của việc đồng áng như: “Người ta đi cấy lấy công/ Tôi nay đi cấy còn trồng nhiều bề/ Trông trời trông đất trông mây/ Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm… hay “Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Đắng cay ấy là nỗi cực nhọc, vất vả của người nông dân trước những biến đổi khó lường của thiên nhiên.
Trong đoạn thơ này, Trần Đăng Khoa kể khó khăn ấy là cơ bão giông ngày tháng bảy, là mưa những ngày tháng ba, rồi những trưa tháng sau trời nắng nóng đến cháy da cháy thịt. Những hiện tượng thời tiết thất thường là những thách thức cho sự sinh trưởng của cây lúa, vốn là loại cây lương thực thân mềm và rỗng bên trong. Nhưng dù khó khăn đến đâu, cũng không khiến con người chùn bước, đầu hàng.
Trước những khó khăn, cực nhọc, người mẹ trong bài thơ và người nông dân nói chung luôn chỉ mong những công sức lao động có thể được đáp lại bằng những hạt lúa căng tròn, những bát cơm thơm trắng. Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 ta thấy, đây là sự khẳng định cho phẩm chất đáng quý, siêng năng, chất phác của người nông dân Việt Nam. Chẳng quản ngại bão táp mưa xa hay trời nắng tháng Sáu khiến nước đồng “như ai nấu”; người nông dân vẫn cần cù làm lụng, siêng năng cày cấy để mong một mùa có được thành quả, để cuộc sống được ấm no.
Luận điểm 2: Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 trong những năm tháng chiến tranh
Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 trong phần này, ta càng thấy rõ vai trò và nghĩa lớn lao của hạt gạo, “hạt ngọc” làng ta. Làm nông nghiệp, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, bất thường thời tiết vốn là những điều đơn thuần, nhưng cái khủng khiếp hơn, nguy hiểm hơn, là việc phải cày cấy giữa mưa bom bão đạn chiến tranh.
“Những năm bom Mĩ
Trút lên mái nhà
Những năm khẩu súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng”
Những câu thơ ngắn của cậu bé 11 tuổi đã như gợi ra trước mắt người đọc cảnh đất nước ta những năm khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chúng âm mưu tàn phá đất nước ta bằng những trận mưa bom, bão đạn với sức hủy diệt khủng khiếp. Trước hoàn cảnh đất nước như vậy, đã có biết bao lớp thanh niên xung phong ra trận mạc đánh đuổi kẻ thù, mang lại sự hòa bình cho đất nước. Đây là nhiệm vụ lớn lao của những người yêu tổ quốc.
Nhưng có người ra trận, cũng cần có người làm hậu phương vững chắc, nhằm tăng gia sản xuất cung cấp lúa gạo cho bộ đội ta đủ sức vóc đánh địch. Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 đến đây, ta càng thêm thấm thía nỗi vất vả của những người nông dân để làm ra được những hạt gạo quý giá.
Nhưng thật căm tức biết bao, khi mà những nỗi khó ngọc sắp đến ngày được đền đáp, thì mọi thứ phải đứng trước nguy cơ bị bom đạn của kẻ thù phá hủy không thương tiếc. Sức tàn phá khủng khiếp ấy được thể hiện ở hình ảnh “vàng như lúa đồng”. Người nông dân một lần nữa phải đức trước thách thức khác, phải ra sức bảo vệ những ngọn lúa, những ruộng đồng. Đê rồi những người chiến sĩ nơi tiền tuyết sẽ nhận được những thành quả ngọt ngào:
“Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông”
Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 ta thấy, chính hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt ấy đã làm nổi bật lên lòng quyết tâm, sự can trường, ý chí mạnh mẽ luôn sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn của người nông dân. Biết rằng nguy hiểm tính mạng đấy, nhưng họ chưa từng lùi bước, nên trái ngọt mà họ gặp hái được là “bát cơm mùa gặt” – “thơm hào giao thông”.
Có thể nói, chiến thắng nơi tiền tuyến là nhờ có được hậu phương vững vàng, những người luôn hướng tới bộ đội, tới dân tộc mà chẳng quản chuyện hi sinh. Và chiến thắng vang dội trước giặc Mỹ, nước nhà được thống nhất đó là niềm vui, là thành quả to lớn nhất của bộ đội và cũng là của những người nông dân. Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 ta hiểu rằng, hạt gạo làng ta quả thực không chỉ được tạo nên từ một cá nhân, một tổ chức đơn lẻ mà là thành quả của sự đồng lòng, hợp sức của cả dân tộc.
Luận điểm 3: Những đóng góp của thanh thiếu nên để làm ra hạt gạo vô giá
Như đã khẳng định, toàn thắng chúng ta là kết quả của sự đoàn kết toàn dân, trong đó lẽ dĩ nhiên không thể chỉ kể tới người lớn mà còn của trẻ em. Bởi “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, trẻ cũng góp công vào công cuộc chung của đất nước:
“Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gàu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quét đất”
Nếu những đoạn thơ trước thể hiện nỗi cực nhọc, vất vả của người nông dân thì đoạn thơ cuối này mang một không khí mới như giúp giải tỏa những căng thẳng, hiểm nguy trước đó. Đặc biệt, qua đoạn thơ này cũng như phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5, ta lại càng chứng minh được lời Bác dạy, rằng những bạn nhỏ có thể giúp làm những việc nhỏ nhưng không kém phần quan trọng. Mà ở đây, việc các bạn nhỏ vục tát nước, bắt sâu hay gánh phân đã giúp những cánh đồ lúa thêm tốt tươi.
Chính hành động của những bạn nhỏ khiến ta càng thêm tự hào về sự đồng lòng, đồng sức của dân tộc cũng như sự đóng góp của sức trẻ vào công cuộc xây dựng đất nước. Qua đây, nhà thơ Trần Đăng Khoa như muốn nhắn nhủ bạn đọc nhỏ tuổi rằng, ở lứa tuổi nào chúng ta cũng có đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của dân tộc. Như các bạn nhỏ trong bài thơ “Hạt gạo làng ta” đã phụ giúp, góp sức cùng cha mẹ làm nên những hạt gạo trắng thơm.
“Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta”
Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 đến câu cuối, ta nhận ra lúc này nhà thơ gọi hạt gạo là “hạt vàng”. Qua cách gọi này, tác giả thể hiện sự trân trọng sức lao động quý giá của người nông dân, để làm ra được hạt gạo quý giá giúp cho đất nước. Hạt gạo là hạt vàng quý giá bởi nó không chỉ giúp con người no bụng mà nó ẩn chứa giá trị tinh thần từ những vất vả, những đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt của người nông dân.
Kết luận khi khân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5
Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta lớp 5 ta thấy, lúc sáng tác bài thơ nhà thơ Trần Đăng Khoa mới chỉ 11 tuổi, nhưng thông điệp thể hiện qua bài thơ lại rất chín chắn, trưởng thành. Những vần thơ ngắn, giàu nhịp điệu giúp người đọc nhận thấy rõ sự vất vả của người nông dân và thêm trân quý hạt gạo. Đồng thời, qua bài thơ tác giả như muốn nhắn nhủ, mỗi người đều có thể góp sức mình vào xây dựng đất nước, cũng cần biết ơn, trân trọng những thành quả ngọt ngào được nhận.