Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo để thấy tinh thần Việt Nam và ghi nhận một lần nữa trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trãi.

Bạn đang đọc: Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo

Mở bài

Nguyễn Trãi có hiệu là Ức Trai, là một danh nhân lỗi lạc, nhà thơ, nhà văn vĩ đại đồng thời là nhà tư tưởng, chính trị kiệt xuất của dân tộc. Trên văn đàm thế kỷ XV, Nguyễn Trãi để lại một di sản văn học với nhiều tác phẩm được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm. Trong đó phải kể đến như Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập. Và hiển nhiên, Bình Ngô đại cáo cũng không thể bỏ qua. Đây được xem là đóng góp to lớn của ông không chỉ về mặt nội dung tư tưởng mà còn về nghệ thuật đối với văn học Việt Nam thời bấy giờ. Khi bán đến tác phẩm này, nhất thiết cần phải phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo.

Thân bài

Trước khi đi vào phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo ta cần biết, Bình Ngô đại cáo là một bài cáo được viết bằng lối văn ngôn. Nguyễn Trãi soạn thảo tác phẩm này vào mùa xuân năm 1428. Đây được xem là thay lời Bình Định Vương Lê Lợi tuyên cáo về chiến thắng của dân tộc ta trước nhà Minh và khẳng định nền độc lập của nước Đại Việt ta.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo theo luận điểm

Luận điểm 1: Thế nào là tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo

Khi đọc Bình Ngô đại cáo, tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Vậy, tư tưởng nhân nghĩa ở đây là gì? Theo như cố Thủ tưởng Phạm Văn Đồng từng khái quát, thì “nhân nghĩa” trong tác phẩm của Nguyễn Trãi chính là lòng quyết tâm chống giặc ngoại xâm, giành lại độc lập dân tộc, mang đến hạnh phúc cho dân.

Bên cạnh đó, trong Bình Ngô đại cáo, tư tưởng nhân nghĩa còn được Nguyễn Trãi thể hiện ở lòng tự hào dân tộc, ý thức về nền độc lập, nền văn hiến dân tộc. Và tuyệt nhiên, nhân nghĩa chính là yêu nước thương dân, quyết diệt bạo tàn, chiến đấu vì hạnh phúc nhân dân.

Qua việc phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo ta cũng sẽ thấy, Nguyễn Trãi luôn nêu cao truyền thống dựng nước và giữ nước. Trải qua nhiều cuộc chiến, từ thực tiễn dựng nước và giữ nước, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc ngày càng được nâng cao.

Luận điểm 2: Những khía cạnh của tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo

Như đã nói ở trên, tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm của Nguyễn Trãi thể hiện trên nhiều phương diện. Sự thể hiện trước tiên là ở ý thức về chủ quyền, độc lập dân tộc.

Nếu Lý Thường Kiệt trong Nam Quốc Sơn Hà đề cập đến ý thức dân tộc trên hai yếu tố là lãnh thổ và chủ quyền, nhưng chỉ ở việc phân chia bờ cõi, thì Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo đã nâng cao và nhân mạnh thêm ba yếu tố quan trọng: phong tục, văn hiến, lịch sử:

Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Định, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Qua phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo với yếu tố đầu tiên, ta thấy Nguyễn Trãi đã nhìn ra vai trò của văn hóa trong việc cấu thành dân tộc. Ông cũng là người đầu tiên khẳng định, dân tộc Đại Việt có một nền văn hóa, văn hiến độc lập, khác với văn hóa phương Bắc. Và một dân tộc có độc lập, có chủ quyền lãnh thổ toàn vẹn hay không, yếu tố để xác định là nền văn hiến.

Cũng bởi nhìn rõ phẩm chất văn hiến của Đại Việt, mà mọi kẻ thù luôn tìm cách phủ định, xóa bỏ. Lời khẳng định trong bản tuyên cáo của Nguyễn Trãi, là lời tuyên bố đối với kẻ thù tàn bạo luôn mưu toan vùi lấp nền văn hóa dân tộc ta.

Để khẳng định chân lý độc lập dân tộc, chủ quyền, nền văn hóa khác biệt, Nguyễn Trãi nêu ra những minh chứng đầy thuyết phục:

Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã…

Chính nền văn hiến, phong tục riêng đã tạo nên sức mạnh dân tộc. Sức mạnh này giúp chúng ta chiến thắng bao kẻ thù, tạo nên một vị thế độc lập, ngang hàng với các triều đại phương Bắc.

Yếu tố thứ hai thể hiện rõ tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo là tư tưởng yêu nước thương dân, cứu nước dựa vào sức mạnh nhân dân.

Người Việt từ ngàn xưa luôn sống nghĩa tình, “lá lành đùm lá rách”, sẻ chia, tương thân tương ái. Bởi vậy, bao kẻ thù dù tình cách đồng hóa, hủy diệt thì chúng ta vẫn luôn giữ được tinh thần nhân nghĩa ấy, giữ vững vẻ đẹp dân tộc ấy.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo dễ thấy, bên cạnh khẳng định truyền thống yêu nước, nền văn hiến lâu đời, Nguyễn Trãi còn khẳng định thêm, nhân nghĩa chính là tình yêu thương con người, là mưu cầu hạnh phúc cho dân. Ông viết:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Ở đây, Nguyễn Trãi mượn lời lẽ của thánh hiền, của Nho giáo xưa làm chỗ dựa cho tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm của mình. Và nhân nghĩa có nghĩa là thương dân, là gắng sức mang đến cuộc sống thái bình cho muôn dân.

Trước hành động trái ngược với đạo lý, ý trời của kẻ thù và với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, Nguyễn Trãi mạnh mẽ lên án, vạch trần và tố cáo những kẻ giả nhân, giả nghĩa luôn dùng luận điệu bịp bợm như giặc Minh:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế

Gây binh kết oán trải hai mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Không chỉ là ngang nhiên chiếm cứ lãnh thổ của một dân tộc độc lập, hành động của kẻ thù là diệt chủng, là xóa bỏ nước Đại Việt ta. Chúng không từ một ai là không hà hiếp, bóc lột dã man. Phải thương dân muôn phần, căm thù giặc sâu sắc, Nguyễn Trãi mới có thể viết ra những lời thống thiết, những hình ảnh cụ thể như vậy. Đọc tác phẩm ta có thể thấy, những người dân vô tội dường như không còn một con đường sống. Kẻ thù gây ra tội ác tàn bạo trên toàn lãnh thổ.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Chẳng bỏ qua cho bất cứ sự sống nào, chúng diệt hại của “côn trùng cây cỏ”, cũng chẳng tha cho “kẻ góa bụa khốn cùng”. Bọn chúng, nhưng kẻ luôn tự xưng có nền văn hiến, văn minh, thông hiểu đạo lý lại như loài quỷ dữ.

Thằng há miệng đứa nhe răng

Máu mỡ no nê chưa chán

Giặc Minh bạo tàn gây ra tội ác chất cao hơn núi. Chúng tham lam vơ vét, tàn sát không kể chi tính người. Bằng những lời kết tội đanh thép, Nguyễn Trãi chỉ thẳng vào mặt những kẻ giả nhân nghĩa ấy.

Độc ác thay! Trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay! Nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần dân chịu được.

Sự bạo tàn của giặc, nỗi thống khổ của dân chúng là vấn đề lớn của lịch sử. Tội ác của kẻ thù là trái với ý trời, với đạo nghĩa. Bởi vậy, chúng ta phải làm nên đại nghĩa, phải dùng chính nghĩa cứu dân khỏi cảnh lầm than, giành lại nền độc lập của dân tộc. Và Nguyễn Trãi, với tư tưởng nhân nghĩa đã xé tan cái bức màn dối trá của nhà Minh, nhưng kẻ lợi dụng nhân nghĩa để bọc lột, để gây ra tội ác hủy diệt.

Yếu tố thứ ba thể hiện lập trường nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ta thấy được khi Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo, đó là lời khẳng định cuộc chiến chống giặc Mình tạn bạo là cuộc chiến chính nghĩa, vì đại nghĩa, vì nền độc lập dân tộc, vì thái bình của nhân dân. Và người Việt ta, tự bao đời luôn yêu chuộng hòa bình, luôn hòa hảo với lân bang. Nhưng khi những kẻ thù ngang nhiên xâm chiếm, bạo ngược hung tàn thì chúng ta phải chiến đấu, phải bảo vệ đất nước, giành lấy chủ quyền.

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Cũng trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi thẳng tay vạch trần tội ác của giặc thù. Và như một đạo lý đã được khẳng định, nhân nghĩa chính là an dân, mà muốn dan dân thì phải đánh bại kẻ thù, phải dẹp cường bạo. Bởi vậy, không chỉ là một cuộc chiến bảo vệ dân tộc, cuộc chiến tranh của ta với giặc minh là tiêu diệt bạo tàn.

Trong quan niệm của đạo Khổng, chữ “Nhân” chỉ mối quan hệ vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè”, còn chữ nghĩa là một trách nhiệm đạo đức giữ cho những mối quan hệ đó tốt đẹp. Đối với mối quan hệ bằng hữu lân bang, mỗi nước phải coi trọng mối quan hệ dù là giữa nước lớn và nước nhỏ. Nhưng khi hạnh phúc của nhân dân bị xâm hại thì quân tử ắt cũng trở thành cường bạo. Như Nguyễn Trãi đã thẳng tay mà chỉ vào hoàng đế nhà Minh “Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng”. Qua nhưng minh chứng, những tuyên cáo, những khẳng định của Nguyễn Trãi, ta thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo không xa rời mà gắn liền với lòng yêu nước thương dân, đạo lý sống ở đời.

Với ý thức về độc lập văn hiến, chủ quyền dân tộc, yêu nước thương dân, Nguyễn Trãi mạnh mẽ tuyên bố vị thế ngang hàng với các triều đại Trung Quốc. Đại Việt là một nước độc lập, bình đẳng với bất cứ triều đại nào. Và những kẻ cho mình là Thiên tử, một khi đã làm trái đạo trời, xâm chiếm Đại Việt, chúng ta sẽ vì chính nghĩa mà chiến đầu, dẹp bạo tàn làm nên đại nghĩa. Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo ta thấy một điểm đáng chú ý trong tư tưởng của Nguyễn Trãi là ở phương sách cứu nước, giúp dân. Như ông viết về thất bại của nhà Hồ là do:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận.

Điều này nghĩa là vương quyền của nhà Hồ không vững là vì không có được lòng dân, không vì lợi ích nhân dân, sinh ra lòng dân oán hận. Chính từ bài học này và lấy dân làm gốc, Nguyễn Trãi đưa ra phương sách cứu nước là đưa dân thoát khỏi nghèo khổ, ách cường bạo. Và trên cơ sở tư tưởng này, khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra.

Nhân dân bốn cõi một nhà

Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

Tướng sỹ một lòng phụ tử

Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

Và tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi thể hiện trong Bình Ngô đại cái cũng gắn liền với việc khẳng định vai trò của nhân dân. Nhân dân đồng lòng có thể dời non, lấp biển. Điều này đã được khẳng định trong suốt bốn ngàn năm lịch sử, bao thế hệ cha ông đã lấy sức mạnh của nhân dân là cơ sở của thắng lợi. Và ở mọi thời đại, dựa vào dân là tư tưởng yêu nước cơ bản, là đường sách chính trị đúng đắn.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo có thể thấy, tư tưởng yêu nước Nguyễn Trãi thể hiện trong tác phẩm không chỉ nằm ở việc biết phát huy sức mạnh của dân mà còn thể hiện trong đối đường lối khôn ngoan biết dừng cuộc chiến đúng lúc.

Và cũng với tinh thần, tư tưởng nhân nghĩa, dân tộc ta đã kết thúc cuộc chiến tranh với tâm lòng nhân ái. Như bao đời người Việt vẫn nói, “Đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”, chúng ta lấy lòng yêu chuộng hòa bình là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng khẳng định vẻ đẹp của con người, của nền văn hóa Việt Nam, vẻ đẹp của một dân tộc nhỏ, yêu chuộng hòa bình, anh hùng và giàu chí khí.

Kết bài

Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi không gì khác là yêu nước, yêu dân, cứu nước, cứu dân, chống kẻ thù xâm lược và tiêu diệt bạo tàn làm nên đại nghĩa, giành độc lập dân tộc và mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Và có thể khẳng định, cái ý nghĩa của chữ “nhân nghĩa” này, Khổng Tử hay Mạnh Tử hay cả Nho giáo xưa chưa bao giờ hiểu được từ gốc.

Mặc dù bị kết tội oan giết vua và phải chịu chu di tam tộc và mãi đến năm 1464, vào thời vua Lê Thánh Tông mới được minh oan, Nguyễn Trãi mãi là một nhà tư tưởng vĩ đại của dân tộc ta. Ông không chỉ để lại những di sản thơ ca quan trọng mà còn khẳng định tư tưởng yêu nước tiến bộ, vượt qua những hạn chế của Nho giáo khắt khe. Và có thể nói, Bình Ngô đại cáo chính là kết tinh của trí tuệ, của tư tưởng tiến bộ, của lòng yêu nước thương dân, lòng tự hào dân tộc ở Nguyễn Trãi.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo ta càng hiểu rõ, tác phẩm thực sự là một tấm gương soi của dân tộc Việt Nam, có vẻ đẹp nhân nghĩa, truyền thống của con người Việt Nam. Và cho đến ngày nay, chúng ta vẫn luôn tự hào khẳng định vẻ đẹp Việt Nam, lối sống Việt Nam với bàn bè năm châu.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *