Phân tích bài Đại cáo bình ngô để thấy được sự những lập luận đanh thép, giọng điệu linh hoạt của Nguyễn Trãi khi vạch tội của kẻ thù xâm lược.
Bạn đang đọc: Phân tích bài Đại cáo bình ngô để thấy được lập luận đanh thép của Nguyễn Trãi
Đã có rất nhiều phân tích bài Đại cáo bình Ngô từ nhiều góc độ khác nhau. Để hiểu được những ý tứ sâu sắc mà Nguyễn Trãi đã đưa vào Đại cáo bình Ngô cần nắm được rõ các luận điểm, luận cứ và cách tác giả lập luận. Cùng tìm hiểu chi tiết bài “Đại cáo bình ngô” qua bài phân tích dưới đây nhé!
Bài mẫu phân tích bài Đại cáo bình ngô
Mở bài
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một nhà quân sự lỗi lạc, tài ba và là một nhà văn, nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình giàu lòng yêu nước và có truyền thống về văn hóa, văn học. Nguyễn Trãi đã để lại sự nghiệp văn học vĩ đại với nhiều tác phẩm nổi tiếng.
Đại cáo bình Ngô là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong cuộc đời thơ văn của Nguyễn Trãi. Đó là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc. Thông qua tác phẩm Nguyễn Trãi vừa vạch trần tội ác của kẻ thù xâm lược, vừa ca ngợi thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Thân bài
- Luận điểm 1: Tiền đề lý luận trong Đại cáo bình ngô
Ngay mở đầu, Nguyễn Trãi đã sử dụng từ ngữ đanh thép để khẳng định sự đúng đắn của cuộc đấu tranh của nghĩa quân Lam Sơn. Đó là cuộc đấu tranh vì lợi ích của nhân dân.
Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Những câu mở đầu như chính lời nói từ tận đáy lòng của Nguyễn Trãi. Bản thân ông coi “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” như một mục tiêu phấn đấu cho cả cuộc đời. Theo quan niệm nho giáo xưa kia, “nhân nghĩa” chính là điều làm người ai cũng phải có. Nó không phải là điều gì cao siêu, nó thể hiện bằng cách hành xử, đối đãi tốt đẹp giữa người với người. Qua giọng văn của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nâng lên một tầm cao mới, đó không còn là việc cá nhân mà nó là sự lo lắng cho đại vận của dân tộc, của thiên hạ.
Sử dụng vế đối “yên dân”, Nguyễn Trãi như muốn khẳng định trong mọi thời đại, lấy dân làm gốc là sức mạnh, là sinh khí của quốc gia. Và hơn hết nhân nghĩa không đơn thuần là lo cho dân, giúp cho dân mà còn là “trừ bạo”, bảo vệ đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia. Bạo ở đây chính là quân Minh, bọn gian tà chuyên hà hiếp dân lành. Ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã xem dân như trụ cột của quốc gia, là người nắm vận mệnh dân tộc. Dường như Nguyễn Trãi đã nâng ý niệm ấy lên thành một chân lý.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Để khẳng định tiền đề lý luận vững chắc, Nguyễn Trãi tiếp tục tận dụng chân lý về độc lập dân tộc. Chỉ qua một đoạn thơ ngắn gọn, Nguyễn Trãi đã đưa ra sự đánh giá toàn diện với đầy đủ nhân tố gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Trong đoạn này, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi để khẳng định “Đại Việt và Trung Hoa là hai dân tộc song song tồn tại”. Những gì đất nước Đại Việt có được không kém gì với bề dày lịch sử của Trung Hoa.
Theo đó, văn hiến của nước Nam trải qua thăng trầm, sự tàn khốc của chiến tranh, do nhân dân tự xây mà có được. Núi sông bờ cõi được chia rạch ròi, cũng như phong tục mỗi miền cũng khác. Những nét riêng ấy chỉ xây dựng bằng thời gian, bằng con người mới có được, thế nên chẳng thể nhầm lẫn cũng không thể xóa bỏ được.
Cùng với đó, Nguyễn Trãi cũng kể ra những triều đại của nước Đại Việt. Việc liệt kê không nhằm khoe mẽ mà đó là để khẳng định chủ quyền. Nguyễn Trãi đã đặt “Triệu, Đinh, Lý, Trần” ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc. Dường như ở đây Nguyễn Trãi muốn thầm khẳng định rằng lịch sử của nước Đại Việt cũng không thua kém gì với Trung Hoa. Sự so sánh tinh tế này bắt nguồn từ lòng tự hào dân tộc của Nguyễn Trãi.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi không quên nhắc tới yếu tố con người. Đó là một trong những yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập. Nguyễn Trãi đã khẳng định thời thế có thể “mạnh, yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”. Chỉ một câu thôi nhưng hàm chứa bao ý nghĩa, nó còn là lời răn đe đối với những kẻ muốn lăm le bờ cõi Đại Việt. Và để tăng thêm tính thuyết phục cho tiền đề lý luận đã đưa ra, Nguyễn Trãi đã sử dụng những từ ngữ mang tính hiển nhiên như “từ trước”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác”. Đó là cách để khẳng định chủ quyền của Đại Việt một cách rạch ròi nhất.
- Luận điểm 2: Soi chiếu lý luận vào thực tiễn
Không dừng lại ở việc đưa ra lý luận suông, Nguyễn Trãi soi chiếu ngay vào thực tiễn để thấy được những kẻ lăm le xâm lược bờ cõi đất nước khác sẽ chịu những hậu quả khôn lường. Bằng chứng đó là sự thất bại trong những cuộc chiến trước đây với phương Bắc.
Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Chỉ bằng ít câu thơ, Nguyễn Trãi đã chỉ ra chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc chiến chống quân xâm lược. Mỗi câu thơ đều mang giọng điệu đanh thép, khẳng định. Với những dẫn chứng rõ ràng càng làm người đọc dấy lên niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
Những sự kiện lịch sử dần dần được Nguyễn Trãi đưa vào, từ chiến công oanh liệt của quân dân ở “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”. Dường như kết cục của những kẻ dương dương tự đắc đi xâm chiếm Đại Việt đều phải đầu rơi máu chảy. Đoạn thơ càng khẳng định cho lý luận rằng Đại Việt là quốc gia có độc lập, tự chủ, chẳng thua kém bất cứ một quốc gia nào. Mỗi một trang lịch sử hào hùng đều được ghi lại cẩn thận trong sử sách, không ai có thể chối cãi hay thay đổi.
Ngòi bút của Nguyễn Trãi dường như có sự ưu ái đối với nhân dân. Thế nên, vì thương dân ông càng xót xa, căm phẫn trước những thảm cảnh mà bọn gian tà đã gây ra cho dân:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
…..
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha?
Ai bảo thần dân chịu được
Ở đoạn này, Nguyễn Trãi đã bóc trần tội ác tày trời của giặc Minh và bọn Việt gian bán nước. Từng chút, từng chút một được lột trần bằng giọng điều chua xót. Thừa lúc chính trị rối ren, giặc Minh đã cấu kết với bọn Việt gian bán nước điên cuồng cướp bóc, xâm phạm chủ quyền. Đâu dừng lại ở đó, chúng còn gây ra bao tội ác tày trời với dân “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Đây không phải là cách diễn đạt cường điệu mà Nguyễn Trãi đưa ra để cho thấy sự hung tàn của giặc Minh mà đó là sự thật đã được ghi trong sử sách.
Không chỉ giết người không gớm tay, bọn giặc còn tận dụng vơ vét của cải bằng cách “Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc”. Qua lời kể của Nguyễn Trãi ta thấy được sự hung hãn của giặc Minh, đồng thời thấy được sự mất nhân tính của bọn cầm thú ấy. Nó đẩy con người ta vào tình cảnh khốn cùng, hủy hoại cuộc sống của nhân dân.
Những câu văn phẫn nộ đầy bi thương, đau xót và căm thù cứ thế tuôn ra. Điều đó càng làm sôi sục tinh thần chiến đấu của người dân Đại Việt.
- Luận điểm 3: Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Ta đây: Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Sau nỗi bất bình, căm phẫn trước tội ác của giặc Minh, Nguyễn Trãi tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi. Đó là hình ảnh của một người nông dân áo vải vì căm phẫn vì sự hung tàn của giặc ngoại xâm đã chọn “Núi Lam Sơn dấy nghĩa”. Hình ảnh của Lê Lợi qua ngòi bút của Nguyễn Trãi đó là một người có lý tưởng, có hoài bão lớn, biết trọng dụng người tài. Lê Lợi – người “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận” luôn đau đáu quyết tâm để thực hiện lý tưởng lớn. Dường như Nguyễn Trãi lấy Lê Lợi để làm hình ảnh tượng trưng cho những người con yêu nước, dám hy sinh quên mình thời bấy giờ.
Lại ngặt vì:Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
…
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Mặc dù tinh thần và lòng quyết tâm dâng cao như núi nhưng giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa gặp muôn vàn khó khăn. Những khó khăn ấy đến từ nhiều phía, quân giặc hùng mạnh mà nghĩa quân còn non trẻ, thiếu thốn nhân tài “nhân tài như lá mùa thu”. Ở đây, Nguyễn Trãi đã miêu tả chi tiết những khó khăn buổi đầu của nghĩa quân “Khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không một đội”. Ấy thế nhưng những điều ấy chẳng là gì khi nghĩa quân bền gan vững chí. Nhờ những chiến thuật đúng đắn, quân dân kết hợp, đoàn kết đã giúp nghĩa quân dần xây dựng được lực lượng vững mạnh.
Chính sự đồng lòng nhất trí của dân, quân, tướng sĩ đã giúp nghĩa quân giành được những thắng lợi ban đầu. Những chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn trong trận chiến bảo vệ chủ quyền này rất nhiều. Nhưng Nguyễn Trãi chỉ nhắc đến một số trận tiêu biểu để thấy rõ sức mạnh và thanh thế ngày càng lớn của nghĩa quân.
Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân
Cách miêu tả chiến thắng của nghĩa quân Lam sơn không dài dòng mà rất ngắn gọn. Nhưng đó lại là cái tài của Nguyễn Trãi khi chỉ với vài câu ấy thôi mà làm nổi bật được cốt lõi của từng trận đánh. Những từ ngữ chắc chắn như “mất vía” làm cho sức mạnh của quân ta trở nên đáng sợ trong mắt quân giặc. Đó là sự bất ngờ khiến giặc trở tay không kịp, hoảng sợ mà cố “nín thở cầu thoát thân”.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Phân tích bài đại cáo bình ngô ở giai đoạn tiếp, Nguyễn Trãi nhắc tới hai trận chiến lược với quân ta đó là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Vẫn là những từ ngữ đắt giá như “máu chảy thành sông” hay “thây chất đầy nội”, Nguyễn Trãi làm cho trận chiến trở nên cực kỳ dữ dội. Bằng sự cường điệu hóa trong ngôn ngữ, Nguyễn Trãi khiến người đọc càng cảm nhận sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã, thảm thương của giặc Minh.
Và cuối cùng hai bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến đã được Nguyễn Trãi tập trung miêu tả sinh động:
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
….
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Từng trận chiến được Nguyễn Trãi khéo léo nhắc đến. Ở đoạn này, nhịp văn có phần gấp gáp như nhịp thở của nghĩa quân với những bước hành quân thần tốc.
Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
….
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Cả một đoạn cáo dài, Nguyễn Trãi dùng thể miêu tả thanh thế của nghĩa quân. Dường như ở đây nghĩa quân đi đến đâu, quân thù bị quét sạch đến đó. Cùng với những chiến thắng vang dội, bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Trãi cũng cho thấy được cách ứng xử vô cùng nhân từ với kẻ ngoại xâm. Đó là “ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”. Thay vì “đuổi cùng giết tận”, nghĩa quân đã mở một con đường sống cho lũ giặc ngoại xâm về nước.
- Luận điểm 4: Niềm tin, ý chí
Sau những hình ảnh vang dội về cuộc chiến của nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã dẫn dắt người đọc đến một tương lai tươi sáng:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn
Ở đây, Nguyễn Trãi đã sử dụng những hình ảnh rõ ràng về tương lai đất nước. Từ đây “xã tắc vững bền”, “giang sơn đổi mới”, “thái bình vững chắc”,… Một cuộc sống mới với đầy đủ sự an – bình được hiện lên thông qua giọng điệu trang trọng, hào sảng của Nguyễn Trãi.
Lời kết
Phân tích bài Đại cáo bình ngô ta thấy được rõ ràng một thời kỳ đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta. Với từ ngữ sắc bén, lối văn biền ngẫu hùng tráng, Nguyễn Trãi đã tường thuật lại một thời kỳ không thể nào quên trong lịch sử dân tộc. Đại cáo bình ngô xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn” của cả dân tộc.
>> Xem thêm: Phân tích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều Nguyễn Du